Lịch sử Giang_Tô

Cổ đại

Thời thượng cổ, nam bộ Giang Tô nằm cách xa trung tâm của nền văn minh Hoa Hạ cổ (Thiểm Tây, Hà NamSơn Tây). Khu vực Hoàng HoàiGiang Hoài thời cổ là quê hương của người Hoài Di. Tại khu vực Tô Châu-Vô Tích-Thường Châu đã xuất hiện các nền văn hóa: Khóa Hồ Kiều (跨湖桥), Mã Gia Banh (马家浜), Tùng Trạch (松泽), Lương Chử (良渚), Mã Kiều (马桥); tại khu vực Ninh Trấn tồn tại văn hóa Hồ Thục (湖熟). Trong truyền thuyết lịch sử Trung Quốc về thủy tổ của tộc Hoa Hạ, Nghiêu là một trong Ngũ Đế, theo truyền thuyết thì Nghiêu sinh ra ở phía nam của Tam A (có quan điểm cho rằng nay là tây bắc Cao Bưu hoặc phụ cận hồ Cao BưuThiên Trường).[4]

Thời Chu

Thời Tây Chu, tiếp xúc giữa Giang Tô và Trung Nguyên đã gia tăng, trên địa bàn Giang Tô khi đó đã có một vài nước chư hầu như Vu (邘), Chung Ngô (钟吾), Bành (彭). Đặc biệt là tại nam bộ Giang Tô đã nổi lên một nước chư hầu cường thịnh là Ngô với đô thành đặt tại Cô Tô (姑苏, nay là Tô Châu). Nước Ngô từng được nước Tấn giúp đỡ để làm một đồng minh chống lại nước Sở, về sau Ngô vương Hạp Lư của nước Ngô đã trở thành một trong Ngũ Bá thời Xuân Thu. Dưới thời Hạp Lư, giữa Ngô và Sở đã xảy ra nhiều cuộc chiến tranh, Sở Chiêu vương bị nước Ngô liên tục uy hiếp nên đã phải dời bỏ Sính đô đi đóng đô ở đất Nhược. Nước Ngô tuy không chiếm được nước Sở nhưng đã trở nên lớn mạnh, nước Sở suy yếu, bị mất vị thế trong khu vực.

Việt Vương Câu Tiễn, người đã tiêu diệt nước Ngô và đưa nước Việt thành bá chủ trong các nước chư hầu

Nhân lúc Ngô-Sở giao chiến, năm 505 TCN, nước Việt ở phía nam đã đưa quân xâm lấn nước Ngô. Năm 496 TCN, Ngô vương Hạp Lư đã đưa quân đi đánh nước Việt để trả thù, tuy nhiên Hạp Lư đã bị trúng tên trọng thương trong trận chiến này và về đến đất Ngô thì chết, trước khi chết, ông ta đã dặn cháu trai là Phù Sai,con thế tử Ba đã mất sớm(theo truyện đông chu liệt quốc) phải báo thù. Khi Phù Sai lên nối ngôi vua nước Ngô đã tích cực luyện quân để đánh Việt. Năm 494 TCN, Phù Sai đích thân mang quân đi đánh nước Việt. Quân Ngô đã đại phá quân Việt (Việt vương Câu Tiễn chỉ huy) ở Phù Tiêu tại vùng Thái Hồ. Sau đó, Phù Sai còn đem quân Ngô đi đánh nước Tề.Việt vương Câu Tiễn vì muốn trả thù nên sau đó đã lập kế đem thóc đã hấp chín rồi phơi khô để trả nợ cho nước Ngô, Ngô vương Phù Sai thấy hạt lúa căng mẩy nên đã phát những hạt lúa này cho dân Ngô gieo trồng, năm đó nước Ngô gặp nạn đói lớn, dân chúng đều oán giận Phù Sai. Năm 484 TCN, Phù Sai lại mang quân từ biển tiến lên phía bắc đánh bại nước Tề. Đầu năm 483 TCN, Phù Sai họp chư hầu ở Hoằng Trì, muốn tranh ngôi bá chủ của nước Tấn. Trong khi hội chư hầu chưa xong thì tháng 6 năm đó, Việt Câu Tiễn mang quân đánh úp nước Ngô. Tuy nhiên, Phù Sai vẫn cố tranh ngôi bá với Tấn Định công. Cuối cùng nước Tấn yếu thế hơn, Tấn Định công phải thừa nhận Phù Sai ở hàng trên.[5] Năm 475 TCN, Câu Tiễn tiến đánh Ngô với quy mô lớn, quân Việt bao vây đô thành nước Ngô suốt hai năm, cuối cùng nước Ngô bị nước Việt tiêu diệt. Diệt xong nước Ngô, Câu Tiễn lại đưa quân vượt Hoài Hà để hợp với các nước chư hầu tại Trung Nguyên ở Từ Châu, thiên tử nhà Chu cũng mang lễ vật đến tặng Câu Tiễn. Từ đó, quân Việt hoành hành suốt dải Giang Hoài, các nước chư hầu đều công nhận Việt là bá chủ.[6] Sau khi diệt Ngô, nước Việt đã thiên đô đến đất Ngô (nay là Tô Châu). Sau Câu Tiễn, nước Việt dần suy yếu trước sự nổi lên của Thất hùng trong thời Chiến Quốc. Vào năm 334 TCN, nước Việt dưới thời Vô Cương (無彊) cuối cùng đã bị nước Sở đánh bại và sáp nhập. Năm 223 TCN, tướng nước TầnVương Tiễn sau khi diệt nước Sở đã tiến vào vùng đất Việt.

Thời Tần

Năm 222 TCN, Tần Thủy Hoàng đã lấy đất Ngô và Việt để thành lập Cối Kê quận, lấy Ngô huyện (ngày nay là Tô Châu) làm quận lỵ. Năm 211 TCN, Tần Thủy Hoàng đã phân đất nước thành 36 quận, phân tây bộ Cối Kê quận thành Cố Chướng quận. Năm 210 TCN, Tần Thuỷ Hoàng đã tiến hành tuần du tại một khu vực thuộc Cối Kê (song nay thuộc Chiết Giang).

Vào cuối thời nhà Tấn, Hạng Vũ (là người Túc Thiên) và thúc phụ Hạng Lương đã dấy binh phản Tần tại Ngô Trung của Cối Kê, Hạng Lương tự xưng làm thái thú Cối Kê, Hạng Vũ làm kì tướng, chiêu hàng các huyện trong quận. Sau đó, tướng Thiệu Bình của Trần Thắng đã giả làm mệnh lệnh của chúa công để phong Hạng Lương làm Thượng trụ quốc nước Sở và giục Hạng Lương tiến đánh Tần. Hạng Lương bèn đem tám nghìn người, vượt Trường Giang đi về hướng tây. Năm 206 TCN, Hạng Vũ đã công nhập kinh đô Hàm Dương của Tần, giết chết Tần Tử Anh, tự lập làm Tây Sở Bá vương, lấy Bành Thành làm kinh đô, phân phong thiên hạ.

Thời Hán

Vào thời Hán sơ, tại vùng Giang Chiết đã hình thành nước chư hầu Kinh (荆). Song do Hán Cao Tổ Lưu Bang gây hại đến đất Ngô nên dân Cối Kê không phục tùng hoàng quyền, triều đình đã phái một hoàng thân là Lưu Tị (刘濞) đến làm Ngô vương, thống trị trên danh nghĩa khu vực nay là phía nam Hoài Hà của Giang Tô và đại bộ phận Chiết Giang (thực tế Lưu Tị thống trị phần lớn Cối Kê quận, Đan Dương quận, Quảng Lăng quận). Tuy nhiên, Lưu Tị lòng dạ có dã tâm nên sau khi thế tử của mình bị thái tử Lưu Khải giết chết đã phát động Thất quốc chi loạn. Để có danh nghĩa khởi binh, Lưu Tỵ công bố hịch văn, giương cao khẩu hiệu diệt trừ gian thần Tiều Thố, "làm sạch chỗ cạnh vua" bố cáo cho thiên hạ biết.[7] Tuy nhiên, ngay tại các nước mưu phản cũng có các đại thần phản đối. Tại nước Ngô, Lưu Tỵ giết hết các quan lại Nhà Hán phản đối mình từ thái thú trở xuống. Ngô vương ra lệnh tổng động viên trong nước, nói rằng mình đã 60 tuổi, người con trai út lên 16, do đó huy động đàn ông trong nước Ngô từ 16 đến 60 tuổi phải ra trận đi đánh triều đình Hán. Tổng số quân Ngô huy động được hơn 20 vạn người.[8] Sau khi thua trận và phần lớn quân Ngô đầu hàng quân triều Hán và nước Lương, Ngô vương Tị đã bỏ chạy qua Trường Giang, đến Đan Đồ (nay là phía đông Trấn Giang), có ý giữ Đông Âu để thế thủ. Do triều đình Nhà Hán treo giải thưởng 1000 cân vàng cho ai lấy được đầu Lưu Tỵ và sai sứ giả đến Đông Âu thuyết phục giết Ngô vương, người Đông Âu đã hành thích rồi cắt thủ cấp Ngô vương đem về Trường An dâng Hán Cảnh Đế.

Sau đó, vào thời Hán, tuyệt đại bộ phận Giang Tô thuộc về hai châu: phía bắc Trường Giang thuộc Từ châu thứ sử bộ, phía nam Trường Giang thuộc Dương châu thứ sử bộ. Tại bắc bộ Giang Tô ngày nay, triều đình đã thiết lập nước Sở với 4 huyện (đô thành nay thuộc Từ Châu), nước Tứ Thủy với 2 huyện (đô thành nay là phụ cận Tứ Dương), nước rồi quận Quảng Lăng với 4 huyện (trị sở nay là phụ cận Dương Châu), Lâm Hoài quận với 18 huyện (trị sở nay thuộc phụ cận Tứ Hồng), Đông Hải quận với 13 huyện (trị sở nay thuộc Đàm Thành của Sơn Đông), Cống Du huyện của Lang Da quận (trị sở nay thuộc Chư Thành của Sơn Đông). Dương châu bao trùm nam bộ Giang Tô, phần lớn An Huy, Chiết Giang, Giang Tây và Phúc Kiến, tại nam bộ Giang Tô ngày nay có 7 huyện thuộc Cối Kê quận (trị sở tại Tô Châu ngày nay) và 5 huyện thuộc Đan Dương quận (trị sở nay thuộc Tuyên Thành của An Huy.

Tam Quốc

Thời Tam Quốc, Từ châu khi đó bao gồm đại bộ phận phía bắc Trường Giang của Giang Tô và 1 phần nhỏ phía nam Sơn Đông từng thuộc về Đào Khiêm,Lưu Bị (2 lần) trước khi rơi vào Tào Ngụy còn vùng Hoài Nam và Giang Nam của Giang Tô thuộc Dương Châu của Đông Ngô. Năm 238, Tôn Quyền đã thiên đô từ Vũ Xương (Kinh Châu, Hồ Bắc) về Mạt Lăng (Dương Châu, Giang Tô) và đổi tên là Kiến Nghiệp (Nam Kinh ngày nay). Đoạn Hoài Hà chảy qua Giang Tô trở thành giới tuyến giữa Đông Ngô và Tào Ngụy. Thời Tôn Quyền là lúc Đông Ngô cường thịnh, nước này đã tiến hành di dân từ phía bắc và bình định các bộ lạc thiểu số, đặc biệt là ở hạ lưu Trường Giang. Tôn Quyền đem quân tiến về hướng Đông Nam, thúc đẩy việc mở mang khu vực này và thực hiện dung hợp dân tộc. Đông Ngô đã khai phá vùng đồng bằng Thái Hồ ở Tam Ngô (Ngô Quận, Ngô Hưng, Cối Kê) và khu vực vịnh Hàng Châu tiếp giáp với Kiến Nghiệp thuộc Đan Dương quận. Các khu vực đồn điền nông nghiệp được hình thành dưới sự giám sát của các võ quan (Điển nông Hiệu úy) tại vùng Thương Châu (nam bộ Giang Tô). Trước các cuộc tấn công mãnh liệt của quân Tấn, quân Đông Ngô tan rã và kinh đô Kiến Nghiệp đã thất thủ vào tháng 3 năm 280, Tôn Hạo đầu hàng nhà Tấn, Đông Ngô diệt vong.

Thời Tấn và Nam-Bắc triều

Thạch khắc tại mộ của An Khanh Thành vương Tiêu Tú (萧秀) của Nam triều Lương

Bắt đầu từ năm 304, Tây Tấn diệt vong do loạn Vĩnh Gia khi các ngoại tộc tại Trung Nguyên nổi loạn, do chiến loạn, đã có một lượng lớn nhân khẩu, bao gồm cả các sĩ tộc đã di cư từ Trung Nguyên đến đồng bằng trung hạ du Trường Giang, sử gọi là "y quan nam độ" (衣冠南渡), việc này đã có tác động sâu sắc đến diện mạo chính trị thời Đông Tấn, đồng thời cũng giúp phát triển kinh tế trung hạ du Trường Giang, khiến trung tâm kinh tế của Trung Hoa chuyển xuống phương nam. Năm 317, Vương Đạo (王導) đã phụ tá Tư Mã Duệ kiến lập triều Đông Tấn tại Kiến Khang (do nhà Tấn kiêng húy Tấn Hoài Đế Tư Mã Nghiệp nên đổi thành Kiến Khang). Từ năm 420 trở đi, bốn triều đại kế tục nhau tại phương Nam Trung Quốc là Lưu Tống, Nam Tề, LươngTrần cũng định đô ở Kiến Khang, chấm dứt khi nhà Tùy thống nhất Trung Quốc vào năm 589. Trong thời gian này, Hoài Hà ở bắc bộ Giang Tô lại một lần nữa trở thành giới tuyến phân chia giữa Bắc và Nam, là tiền tuyến trong các cuộc chiến tranh giữa hai bên.

Thời Tùy

Năm 589, Tùy diệt Trần, một lần nữa thống nhất Nam-Bắc. Năm 605, Tùy Dạng Đế đã giao công việc mở rộng, kéo dài Đại Vận Hà cho Vũ Văn Khải, để có thể nối liền Trác Quận (nay là Bắc Kinh) với Hàng Châu. Công việc này kéo dài trong 6 năm và đoạn kênh nằm giữa Trường Giang và Hàng Châu được đặt tên là Giang Nam Vận Hà (江南运河). Thời nhà Tùy, triều đình đã có một chính sách cậy quyền đối với các di dân Nam triều, cảnh tượng tiêu điều bao trùm lên nhiều khu vực tại Tô Nam. Về sau, do sự đấu tranh của địa chủ phương Nam, triều đình nhà Tùy đã phải áp dụng một chính sách ôn hòa hơn đối với phương nam, khiến Tô Nam và các phần khác từng nằm dưới sự thống trị của Trần xuất hiện cảnh phục hồi. Thời đại loạn Tùy mạt, quân phiệt Thẩm Pháp Hưng (沈法兴) đầu tiên đã phá hủy Dương Châu thành, và sau đó công nhập Giang Nam, chiếm được khu vực nay là Chiết Giang và nam bộ Giang Tộ, tự xưng Lương vương. Sự việc này đã khiến cho kinh tế Giang Nam chịu thiệt hại không nhỏ.

Thời Đường

Dương Châu, một thành thị thương mại nổi lên từ thời Nhà Đường

Cùng với thời kỳ Nhà Hán, thời kỳ Nhà Đường là thời kỳ hoàng kim của Trung Quốc. Việc cung cấp lương thực của hoàng thất thời Đường dựa vào Giang Nam, triều đình quy định vào tháng 2 mỗi năm, thuyền vận lương Giang Nam sẽ tập trung tại Dương Châu, từ đó Dương Châu trở thành thành thị thương nghiệp nổi tiếng nhất Trung Quốc. Thời Đường, bộ phận phía nam Trường Giang của Giang Tô thuộc Giang Nam Đông đạo, bộ phận ở phía bắc Trường Giang và phía nam Hoài Hà thuộc Hoài Nam đạo, bộ phận ở phía bắc Hoài Hà thuộc Hà Nam đạo.

Cuối thời Nhà Đường, Trung Quốc xuất hiện tình trạng phiên trấn cát cứ nghiêm trọng, tại Giang Tô đã xuất hiện tình trạng đối đầu và xung đột trong một thời gian dài giữa Hoài Nam tiết độ sứ (trú địa Dương Châu) và Chiết Tây quan sát sứ (trú địa Trấn Giang).

Là kinh đô của Lục triều, Kiến Khang thời Tùy đã ở trong tình trạng bị phá hoại nghiêm trọng, đến thời Nhà Đường cũng không có gì khởi sắc. Đến thời cuối Nhà Đường, Kiến Khang nằm ở nơi giao giới giữa ba phiên trấn lớn là Hoài Nam, Chiết Tây và Tuyên Hấp, lại càng dễ bị phá hủy trong chiến tranh, đến tận khi Nam Đường lập quốc thì thành mới bắt đầu được khôi phục.

Thời Ngũ Đại Thập Quốc

Vào cuối thời Nhà Đường, tướng Dương Hành Mật đã cát cứ vùng Hoài Nam, sau đó ông được phong làm Hoài Nam tiết độ sứ năm 892. Năm 902, Dương Hành Mật được Đường Chiêu Tông phong làm Ngô vương. Sau khi nhà Hậu Lương thay thế Nhà Đường, trưởng nam của Dương Hành Mật là Dương Ác đã từ chối công nhận điều này và vẫn sử dụng niên hiệu của Nhà Đường. Từ thời điểm này, nước Ngô trở thành một chính thể độc lập và tự chủ. Ban đầu, Kinh đô nước Ngô đặt tại Quảng Lăng (nay là Dương Châu) và lãnh thổ bao gồm nam bộ An Huy, nam bộ Giang Tô, đại bộ phận Giang Tây, Hồ Nam cùng đông bộ Hồ Bắc. Kinh đô sau này được chuyển tới Kim Lăng (nay là Nam Kinh).

Trong lúc đó, cực nam của Giang Tô (khu vực Tô Châu ngày nay) thuộc quyền cai quản của Tiền Lưu. Sau khi Nhà Đường diệt vong, Tiền Lưu cũng tự xưng Ngô Việt vương, lập ra nước Ngô Việt, kinh đô nước này đặt tại tại Tây Phủ (nay là Hàng Châu). Lãnh thổ Ngô Việt gần như bao gồm toàn bộ lãnh thổ nước Việt thời Xuân Thu, chứ không bao gồm đất của nước Ngô thời đó – điều này dẫn tới những lời cáo buộc của Dương Ngô rằng Ngô Việt có mưu đồ đối với lãnh thổ của họ, và tên gọi này là nguồn gốc của các căng thẳng trong nhiều năm giữa hai quốc gia. Ngô Việt cuối cùng đã sáp nhập vào Tống một cách tương đối hòa bình.

Từ Tri Cáo, tên thật Lý Biện, ban đầu là con nuôi Dương Hành Mật. Tuy nhiên đến năm 937, ông đã chính thức chiếm đoạt quyền hành của nước Ngô, cho rằng mình thuộc dòng dõi hoàng tộc Nhà Đường nên đã cải lại sang họ Lý, tự xưng Hoàng đế, lập nên nước Nam Đường. Kinh đô Nam Đường được đặt ở Kim Lăng (cũng gọi là Tây Đô), ngày nay là Nam Kinh. Nước Nam Đường nắm bắt thời cơ, diệt Ân (một chính quyền ly khai khỏi Mân) và cả Mân vào năm 945, thôn tính nước Sở năm 951. Sau khi nhà Hậu Chu thay nhà Hậu Hán, Hậu Chu Thế Tông (Sài Vinh) mang quân nam tiến, đánh cho Nam Đường đại bại. Sau hai cuộc chiến năm 956 và 958, Nam Đường bị mất phần đất Giang Bắc, chỉ co cụm về Giang Nam. Lý Cảnh phải xưng thần, làm chư hầu với Hậu Chu và từ bỏ niên hiệu riêng, dùng niên hiệu của Hậu Chu. Năm 976, Tống Thái Tổ cất quân đánh Nam Đường, bắt vua Nam Đường là Lý Dục về Biện Kinh. Nước Nam Đường diệt vong.

Trong thời Ngũ Đại Thập Quốc, đại bộ phận vùng Hoài Bắc của Giang Tô thuộc quyền cai quản của Ngũ Đại.

Phiên bản thế kỷ XII của Hàn Hi Tái dạ yến đồ, Bảo tàng Cố Cung Bắc Kinh. Bức tranh gốc do Cố Hoành Trung vẽ để mô tả các bữa tiệc phóng túng trái với Nho giáo của Hàn Hi Tái (một viên quan cấp cao trong triều đình Nam Đường dưới thời Lý Dực)

Thời Tống

Dưới sự cai trị của triều đình Nhà Tống, giai tầng thương nhân giàu có cũng như kinh tế công thương nghiệp của Giang Tô có sự phát triển nhanh chóng, các thành thị chủ yếu như Tô Châu và Dương Châu đã phát triển thành các trung tâm thương nghiệp nổi bật. Dưới thời Tống, địa bàn Giang Tô ngày nay phân thuộc bốn lộ, cụ thể như sau: Giang Ninh phủ (nay là Nam Kinh) thuộc Giang Nam Đông lộ; Tô Châu, Thường Châu, Nhuận Châu thuộc Lưỡng Chiết Tây lộ; Dương Châu, Hoài An, Thái Châu, Hải Châu, Tứ Châu, Thông Châu, Chân Châu thuộc về Hoài Nam Đông lộ; Từ Châu thuộc Kinh Đông Tây lộ.

Năm 1127, nhà Kim của người Nữ Chân sau khi chinh phục Hoa Bắc đã tiến đến vùng Hoài Hà ở bắc bộ Giang Tô, Hoài Hà sau đó trở thành biên giới giữa triều Kim ở phía bắc và triều Nam Tống ở phía nam. Thời Nam Tống, Kinh Đông Tây lộ bị bãi bỏ, còn Hoài Nam Đông lộ, Giang Nam Đông lộ, Lưỡng Chiết Tây lộ vẫn tồn tại song ranh giới có sự điều chỉnh.

Thời Nguyên

Năm 1279, người Mông Cổ chiếm lĩnh Trung Quốc. Ban đầu, triều đình Nhà Nguyên sáp nhập Lưỡng Chiết lộ và Lưỡng Hoài lộ, thiết lập Giang Hoài đẳng lộ hành trung thư tỉnh, cai quản Lưỡng Hoài (Hoài Nam Đông lộ và Hoài Nam Tây lộ), Lưỡng Chiết (Lưỡng Chiết Tây lộ và Lưỡng Chiết Đông lộ), tỉnh hội đặt tại thủ phủ của Hoài Nam Đông lộ trước đây là Dương Châu. Đến năm Chí Nguyên thứ 21 (1284) thời Nguyên Thế Tổ, do không thuận lợi về mặt địa lý và dân sự, triều đình Nhà Nguyên đã chuyển tỉnh hội đến Hàng Châu. Đến năm Chí Nguyên thứ 22 (1285), triều Nguyên cắt Giang Bắc để nhập vào Hà Nam Giang Bắc đẳng xứ hành trung thư tỉnh, phần đất trước đây thuộc Lưỡng Chiết lộ thì thành lập Giang Chiết đẳng xứ hành trung thư tỉnh.[9]

Thời Minh

Minh Hiếu lăng, lăng tẩm của Chu Nguyên Chương, một trong những lăng vua thời cổ lớn nhất thế giới[10]

Năm 1368, Chu Nguyên Chương đã lập nên Nhà Minh, ban đầu triều đình này định đô ở Nam Kinh. Triều đình Minh sau đó đã đưa các phủ và trực lệ châu tại khu vực thuộc hai tỉnh An Huy và Giang Tô ngày nay nằm dưới quyền cai trị trực tiếp của trung ương, gọi là "Trực Lệ". Năm Vĩnh Lạc thứ 19 (1421), Minh Thái Tông Chu Lệ sau khi thiên đô đến Bắc Kinh đã cải "Trực Lệ" thành "Nam Trực Lệ". Khi đó, khu vực thuộc tỉnh Giang Tô ngày nay tồn tại 7 phủ, trong đó có 5 phủ ở Giang Nam là: Ứng Thiên phủ (Nam Kinh), Tô Châu phủ, Tùng Giang phủ, Thường Châu phủTrấn Giang phủ, ở Giang Bắc có 2 phủ là Dương Châu phủHoài An phủ.

Thời Minh, kinh tế và văn hóa của Giang Tô phát triển ở thời đỉnh cao: Nam Kinh cũng có được vị thế "kinh thành" bên cạnh Bắc Kinh; Tô Châu và Tùng Giang dựa trên ngành dệt phát triển vẫn tiếp tục nắm giữ vị thế là trung tâm kinh tế của toàn Trung Quốc, trở thành khu vực có trình độ công nghiệp hóađô thị hóa cao nhất trong số các địa phương, các thành thị lớn nhỏ xuất hiện ở nhiều nơi, giá đất ở mức cao, tiền thuế nộp cho triều đình đứng hàng đầu cả nước.

Cũng vào thời Minh, trình độ phát triển văn hóa của Giang Tô cũng đứng hàng đầu tại Trung Quốc. Trong một thời gian dài, Giang Tô là nơi sản sinh một tỷ lệ lớn trạng nguyên trong các kỳ thi khoa cử. Đối với toàn Trung Quốc, các phong cách văn hóa và quan điểm thẩm mỹ tại Giang Tô có ảnh hưởng sâu rộng. Dương Châu và Hoài An nằm trên tuyến Đại Vân Hà nối kinh thành và Hàng Châu (tuyến vận chuyển lương thực từ phương Nam lên kinh thành) và là điểm khống chế mậu dịch muối ăn, nằm trong số các thành thị phồn hoa nhất ở phía bắc Trường Giang tại Trung Quốc khi đó.

Thời Thanh

Ảnh mô tả sự kiện Dương Châu thập nhật, cuộc đại thảm sát dân chúng trong thành Dương Châu do quân Thanh tiến hành vào năm 1645

Sau khi kinh đô Bắc Kinh bị Lý Tự Thành chiếm được vào năm 1644. Một số hoàng tộc và quan lại Nhà Minh đã tìm cách di cư lánh nạn về phía nam Trung Quốc và tập hợp lực lượng còn lại xung quanh Nam Kinh, kinh đô thứ hai của Nhà Minh, lập nên nhà Nam Minh. Đến năm Thuận Trị thứ 2 (1645), quân Thanh do Đa Đạc lãnh đạo đã đưa quân xuống phía nam, Sử Khả Pháp đã chỉ huy quân tứ trấn của Nam Minh chống lại và thắng được một số trận. Tuy nhiên, lúc này triều đình Nam Minh lại lục đục, tướng Tả Lương Ngọc đã đưa quân từ Vũ Xương tiến đánh Nam Kinh, Mã Sĩ Anh sợ hãi nên đã gọi quân tứ trấn phải từ Giang Bắc trở về đối phó. Sử Khả Pháp hiểu rõ rằng quân Thanh đã áp sát, không nên dời Dương Châu, song bất đắc dĩ vẫn quyết định vượt Trường Giang ứng cứu. Khi hay tin Tả Lương Ngọc đã bị đánh thua, ông lại vượt Trường Giang, song lúc này quân Thanh đã áp sát Dương Châu. Sử Khả Pháp ban hịch kêu gọi mọi người đem binh về cứu thành Dương Châu song không ai hưởng ứng. Đa Đạc sau đó dã ra lệnh bao vây và tiến đánh Dương Châu suốt ngày đêm, quân và dân trong thành kiên quyết chống lại. Cuối cùng, Đa Đạc lệnh cho bắn pháo vào thành, tường thành dẫn sụp đổ rồi vỡ, quân Thanh xông vào thành Dương Châu. Đa Đạc thấy quân Thanh bị thương vong quá lớn khi công thành nên đã quyết định làm cỏ toàn bộ dân trong thành, cuộc đại tàn sát kéo dài trong suốt mười ngày, sử gọi là Dương Châu thập nhật (揚州十日).[6]

Sau khi Dương Châu thất thủ, quân Thanh đã tiến đến Nam Kinh, chính quyền Hoàng Quang Đế bị tiêu diệt. Sau đó, quân Thanh bắt toàn thể dân chúng Giang Nam phải theo phong tục Mãn Thanh như phải cạo tóc ở phía trước đầu và để bím tóc ở phía sau, ai trái lệnh sẽ bị chém, khiến nhân dân Giang Nam bất bình. Quân dân Gia Định đã chống lại quân Thanh trong ba tháng, bị quân Thanh tàn sát ba lần với hơn 20.000 người chết, sử gọi là Gia đình tam đồ (嘉定三屠).[6]

Triều Thanh cũng đổi "Nam Trực Lệ" thành Giang Nam tỉnh. Đến năm Khang Hy thứ 6 (1667), triều Thanh lại chia Giang Nam thành hai tỉnh Giang Tô và An Huy. Khi đó, tuần phủ nha môn của Giang Tô trú tại Tô Châu và bao gồm các phủ Giang Ninh, Tô Châu, Hoài An, Dương Châu, Từ Châu, Thông Châu, Trấn Giang, Trùng Giang (nay là Thượng Hải), đại thể tương tự như tỉnh Giang Tô hiện nay. Ngoài ra, triều Thanh cũng quy định tiết chết Lưỡng Giang tổng đốc trú tại Nam Kinh và phạm vi bao gồm ba tỉnh Giang Tô, An Huy và Giang Tây. Từ năm 1780 trở về trước, An Huy bố chính sứ trường kì trú tại Nam Kinh, đến năm 1780 thì mới chuyển đến tỉnh hội An Khánh. Tại Nam Kinh, thiết lập chức Giang Ninh bố chính sứ, Giang Tô bố chính sứ trú tại Tô Châu và quản lý vùng Tô Nam, Giang Tô học chính trú tại Giang Âm.

Lưỡng Hoài diêm vận sứ trú tại Dương Châu, phụ trách quản lý diêm trường Lưỡng Hoài, một diêm trường trọng yếu của đất nước. Phạm vi tiêu thụ theo quy định bao gồm 4 tỉnh trung du Trường Giang là Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tây và An Huy, cùng với nam bộ Hà Nam, Giang Ninh phủ và các phủ ở phía bắc Trường Giang của Giang Tô. Bốn phủ ở nam bộ Giang Tô là Tô Châu, Tùng Giang, Thường Châu và Trấn Giang chịu sự quản lý về muối của Lưỡng Chiết Giang Nam diêm vận sứ ti trú tại Hàng Châu.

Thời Thanh, tại khu vực duyên hải Giang Tô dã thiết lập thêm ba trực lệ châu là: Thái Thương, Thông Châu và Hải Châu, thăng Từ Châu từ cấp trực lệ châu thành cấp phủ. Do dân số gia tăng với số lượng lớn, nhiều huyện ở nam bộ Giang Tô đã chia đôi song vẫn chung huyện thành (đến thời Dân Quốc mới bãi bỏ điều này), trong thành Tô Châu thậm chí còn có huyện nha của ba huyện là Ngô, Trường Châu và Nguyên Hòa.

Trong những năm 1840, Giang Tô bắt đầu chịu ảnh hưởng của phương Tây. Năm 1843, theo điều ước Nam Kinh, một khu vực ít được biết đến ở đông nam Giang Tô là Thượng Hải đã trở thành một thương cảng hiệp ước, về sau tại đó đã hình thành nên tô giới quốc tếtô giới Pháp. Thượng Hải đã nhanh chóng phát triển thành một đại đô thị mậu dịch, tài chính và quốc tế hóa, đến đầu thế kỷ XX thì nơi này đã có hàng triệu cư dân. Năm 1927, Thượng Hải đã chính thức tách ra khỏi Giang Tô và trở thành một viện hạ thị độc lập. Tại Trấn Giang và Tô Châu cũng lần lượt thiết lập tô giới Anh và tô giới Nhật, song với quy mô nhỏ hơn.

Cuối thời Nhà Thanh, nam bộ Giang Tô từng nằm dưới quyền kiểm soát của cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc. Đến năm 1853, Thái Bình Thiên Quốc thiên đô đến Nam Kinh và đổi tên thành Thiên Kinh. Các trận chiến quyết liệt giữa Nhà Thanh và Thái Bình Thiên Quốc đã khiến Giang Tô chịu tổn thất vô cùng nặng nề, các thành thị chủ yếu như Nam Kinh, Thanh Giang Phố (nay là Hoài An), hay các khu phố phồn hoa của Tô Châu và Dương Châu, đều bị hủy diệt. Sau đó, các cư dân nói Quan thoại đã di cư đến Giang Tô, khiến cho Nam Kinh, Trấn Giang và Dương Châu không còn là vùng nói tiếng Ngô; vị thế trung tâm kinh tế Trung Quốc của Tô Châu cũng về tay Thượng Hải.

Thịnh thế tư sinh đồ (盛世滋生图) phản ánh sự phồn hoa của Tô Châu vào thời Thanh

Thời Dân Quốc

Đại môn của phủ Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc tại Nam KinhBinh sĩ quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc trong chiến dịch Hoài Hải

Sau khi Trung Hoa Dân Quốc được thành lập, chính phủ Quốc dân sau đó đã phế bỏ chế độ phủ, châu, thính và phân toàn tỉnh Giang Tô thành 60 huyện. Năm 1916, sau khi Viên Thế Khải chết, toàn bộ Trung Quốc rơi vào cảnh quân phiệt cát cứ. Tỉnh Giang Tô từng thuộc quyền thống trị của Trực Lệ quân phiệt do Trương Tông Xương đứng đầu, cùng quản lý khu vực Thượng Hải với Hoàn hệ quân phiệt tại Chiết Giang song về sau giữa hai bên đã bùng phát chiến tranh Giang-Chiết. Sau nhiều tháng, chiến tranh kết thúc với thắng lợi thuộc về Trực hệ. Tuy nhiên, sau đó giữa Trương Tông Xương và Tôn Truyền Phương quay sang đối mặt nhau, Tôn Truyền Phương đã mở rộng địa bàn sang tỉnh Giang Tô. Ông ta đặt tổng hành dinh tại Nam Kinh với tư cách Đốc quân Giang Tô ngày 25 tháng 11 năm 1925.[11] Sau Bắc phạt, Giang Tô nằm dưới quyền kiểm soát của Chính phủ Quốc dân. Trong thời gian này, công thương nghiệp của Giang Tây phát triển nhanh chóng, ngành dệt tại Vô Tích, Nam Thông và Thường Châu đã phát triển lớn mạnh.

Tháng 4 năm 1927, Tưởng Giới Thạch đã thiết lập chính phủ trung ương tại Nam Kinh. Chính quyền Tưởng Giới Thạch quản lý một cách thống nhất hơn một nửa Trung Quốc, đồng thời đã tiến hành kiến thiết hiện đại hóa đất nước, bao gồm cả xây dựng mạng lưới công lộ. Năm 1928, sau khi chính phủ Quốc dân chính thức định đô tại Nam Kinh, đã tiến hành kiến thiết thủ đô với quy mô lớn, tỉnh lị của Giang Tô được chuyển đến Trấn Giang vào năm 1929.

Sau khi chiến tranh Trung-Nhật bùng phát toàn diện vào năm 1937, quân Nhật đã oanh tạc dữ dội những nơi nằm dọc theo tuyến đường sắt Hỗ-Ninh (Thượng Hải-Nam Kinh) như Trấn Giang, Vô Tích, Tô Châu và các thành phố khác. Ngàu 13 tháng 12, quân Nhật công hãm Nam Kinh, trong vòng ba tháng đã có hàng trăm nghìn thường dân và binh lính Trung Quốc đã giải giáp bị lính của Quân đội Đế quốc Nhật Bản sát hại.[12][13]. Các hành động hãm hiếp và cướp bóc trên quy mô lớn cũng đã diễn ra tại Nam Kinh.[14][15] Các sử gia và nhân chứng ước tính rằng đã có từ 250.000 đến 300.000 người bị giết trong cuộc thảm sát này.[16]

Chính quyền tỉnh Giang Tô tạm thời đã di dời từ Trấn Giang đến Hoài An để tránh sự uy hiếp của quân Nhật, đến năm 1939, chính quyền tỉnh di dời đến Hưng Hóa. Nam Kinh cũng là thủ đô của chính quyền Uông Tinh Vệ cho đến khi Nhật Bản đầu hàng vào năm 1945. Chính quyền Uông Tinh Vệ đã di dời chính quyền tỉnh Giang Tô do mình quản lý đến Tô Châu. Đến năm 1944, chính quyền Uông Tinh Vệ đã thành lập tỉnh Hoài Hải tại bắc bộ Giang Tô và An Huy, lấy Từ Châu làm trung tâm. Trong chiến tranh, Tân Tứ quân (do Cộng sản đảng điều hành) đã tiến vào Tô Bắc, khống chế một bộ phận khu vực nông thôn, trụ sở quân sự được thiết lập tại Diêm Thành.

Sau chiến tranh, chính phủ Quốc dân đã hoàn đô từ Trùng Khánh về Nam Kinh, song lúc này Cộng sản đảng đã kiểm soát được một bộ phận khu vực Tô Bắc và Tô Trung và họ đã thành lập chính phủ biên khu Tô Hoàn đặt tại Hoài An. Không lâu sau, nội chiến Quốc-Cộng bùng phát, Cộng sản đảng triệt thoái khỏi Giang Tô. Tuy nhiên, đến năm 1948, những người cộng sản đã giành chiến thắng trong chiến dịch Hoài Hải ở khu vực phụ cận Từ Châu. Tháng 4 năm 1949, quân Cộng sản đã dễ dàng vượt Trường Giang và chiếm Nam Kinh, chính phủ Quốc dân triệt thoái đến Đài Loan.

Thời Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa

Sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập, Bắc Kinh trở thành thủ đô. Ban đầu, Giang Tô được phân thành hành thự Tô Bắc và hành thự Tô Nam, song đến năm 1953 thì lại hợp lại thành tỉnh Giang Tô, tỉnh lị đặt tại Nam Kinh. Ranh giới giữa Giang Tô và An Huy cũng có điều chỉnh nhỏ: hai huyện Hu DịTứ Hồng được chuyển cho Giang Tô, ngược lại, hai huyện TiêuNãng Sơn của Từ Châu thì được chuyển sang cho An Huy.

Đến đầu thập niên 1980, các xí nghiệp tại nam bộ Giang Tô khá phát triển, Tô Nam trở thành khu vực giàu có và phát triển nhất Trung Quốc lúc đó. Tuy nhiên, trong thời kỳ đầu cải cách mở cửa, tâm điểm kinh tế là vùng ven biển đông nam, nhất là tại tỉnh Quảng Đông, điều này đã khiến Giang Tô dần bị tụt lại phía sau. Kinh tế Giang Tô vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990 rơi vào tình trạng đình trệ. Tuy nhiên, đến đầu thập niên 1990, trung tâm kinh tế của vùng đồng bằng châu thổ Trường Giang là Thượng Hải đã nhận được sự quan tâm to lớn, các thành thị ở nam bộ Giang Tô gần gũi với Thượng Hải như Tô Châu và Vô Tích cũng phát triển nhanh chóng. Trong cùng thời kỳ, xuất hiện dòng vốn đầu tư nước ngoài đổ vào Tô Nam với số lượng lớn, kinh tế Giang Tô từ đó xuất hiện chênh lệch phát triển giữa nam và bắc. Thực lực kinh tế tổng hợp của Nam Kinh cũng có sự đột phá, đứng hàng đầu tại Giang Tô. Khu công nghiệp Trung Quốc-Singapore tại Tô Châu là khu phát triển kinh tế-kỹ thuật cấp quốc gia.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Giang_Tô http://www.people.com.cn/GB/shenghuo/1090/2435218.... http://english.peopledaily.com.cn/data/province/ji... http://news.sina.com.cn/c/2009-09-29/081516377168s... http://www.chinayts.gov.cn/Default.aspx?tabID=175&... http://www.jiangsu.gov.cn/ http://www.jiangsu.gov.cn http://www.js.gov.cn/zgjszjjs/jsgl/zrdl/ http://www.jscd.gov.cn/art/2007/9/1/art_894_52293.... http://www.gov.cn/test/2012-04/09/content_2109245.... http://www.wxgyxy.uun.cn/news/info/info11225.html